doc truyen tieu thuyet đỗ đỗ
Ngay sau đây mời quý vị các bạn cùng lắng nghe truyện đêm khuya Màu Thửa Ruộng của tác giả Đỗ Tiến Thuỵ qua giọng đọc NSƯT Hà Phương. Giọng đọc: VOV. Tác giả: Đỗ Tiến Thuỵ. 1 người đang nghe. Lượt nghe: 11.258. Nghe Đọc Truyện Đêm Khuya VOV Chọc Lọc (22H00 hằng ngày
Thần Mộ 2 chương 2 | Đọc Chương 2: Chúa tể Phương Đông full - doc truyen Than Mo 2 chương 2 Full trên di động lan may tinh bang that don gian va tien loi. Đỗ Vũ hừ lạnh một tiếng, tựa hồ cũng biết tiểu long chơi khó mình, không thèm đáp lời. Hắn cởi áo choàng, vung tay một phát
Những Cuốn Tiểu Thuyết Hay Nhất Của Diệp Lạc Vô Tâm. Những Cuốn Truyện Tiểu Thuyết Hay Nhất Của Đinh Mặc. 1. Mạc phụ hàn hạ. Nữ chính Mộc Hàn Hạ từng là công chúa sống trong nhung lụa cho đến một ngày tai họa ập đến không báo trước, cô một mình phải gánh chịu
Cashberry Lừa Đảo. Má Hồng Đỗ Tiến ĐứcTHỜI MỚI xuất bản 1968 Truyện Dài VH Miền Nam Trước 75 CHAPTERS 11 VIEWS 2707 Khi tôi tới văn phòng lầm việc thì đã gần ba giờ. Những kẹp hồ sơ trình xem, trình ký, những công văn mới tới để cao từng chồng khắp mặt chiếc bàn nhỏ. Ở phòng ngoài, tiếng máy chữ lách cách và những tiếng đối thoại ồn ào dễ kích thích tính ham làm việc của tôi. Trưa nay coi như tôi đã mất đi giấc ngủ thường lệ mỗi ngày khi ở tiệm cơm về. Những tờ nhật báo, những tờ tạp chí đã vùi kín tôi suốt hai tiếng đồng hồ triền miên trong sự sung sướng say đắm. Những giòng chữ in, những trang giấy rộng còn thơm mùi trinh tân xao xuyến như những giòng thư của người bạn lưu lạc phương trời xa gửi tới. Nên, tôi đọc, tôi đọc để đọc. Nhiều tin tức đã biết rõ hậu qui qua đài phát thanh. Nhiều thông cáo, tin buồn tin vui nơi cuối trang tư có ảnh hưởng gì đến tôi ? Hôm nay, buổi chiều tôi sẽ có thư Sài gòn nữa. Chị Dung ơi, tuần này chị nói với em chuyện gì nào ? Đỗ Tiến Đức sinh ngày 11 tháng 10 năm 1939 tại Sơn Tây, vào Nam năm 1954. Năm 1969 ông đoạt Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc bộ môn văn với tác phẩm Má hồng. Những tác phẩm khác gồm có phim Ngọc Lan 1972, Yêu 1973, và Giỡn mặt tử thần 1975. Phim Giỡn mặt tử thần chưa kịp trình chiếu thì Việt Nam Cộng hòa sụp đổ. Đỗ Tiến Đức có công nhiều trong việc phát triển ngành điện ảnh Việt Nam khi ông tổ chức "Ngày Điện ảnh Việt Nam" ngày 22 Tháng 9, 1969. Vào ngày đó ông vận động tất cả các rạp chiếu bóng chỉ chiếu phim Việt Nam và không thu vé để khán giả vào xem thật đông, kích động ngành điện ảnh trong nước. Từ năm 1985, ông là chủ bút báo Thời Luận ở Los Angeles, Nam California. TÁC PHẨM Hoa niên 1954 Má hồng 1968 Phân cảnh phim Yêu 1972 Lối vào 1990 Vầng trăng trong mưa 1993 Tiếng xưa 2000 Những chuyện rất Việt Nam 2006 Tháng Tư 1975 2007 Bên em là bóng tối 2008
0 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN KIM DŨNG HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2013 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH TRẦN KIM DŨNG HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN Chuyên ngành Lý luận văn học Mã số LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học TS. LÊ VĂN DƯƠNG NGHỆ AN - 2013 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 1. Lý do chọn đề tài.......................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề...........................................................................................1 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi tư liệu khảo sát.......................................3 4. Nhiệm vụ nghiên cứu................................................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu...........................................................................4 6. Cấu trúc luận văn.......................................................................................4 Chương 1. TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN TRONG BỨC TRANH CHUNG CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VỀ ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ........................................................................................5 Sự thể hiện đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam hiện đại...................5 Khái niệm đô thị..............................................................................5 Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam trước 1945 đến năm 1975 ...................................................................................................................8 Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975...................12 Một số tác giả tiêu biểu trong văn học Việt Nam từ 1975 đến nay viết về đề tài đô thị......................................................................................16 Ma Văn Kháng..............................................................................16 Nguyễn Việt Hà.............................................................................18 Hồ Anh Thái..................................................................................21 Phong Điệp....................................................................................22 Chu Lai..........................................................................................26 Đỗ Phấn - một cây bút có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam hiện đại qua mảng đề tài đô thị...................................................................28 1 Đỗ Phấn - vài nét về con người, cuộc đời và sự nghiệp................28 Hiện thực đô thị - đề tài nổi bật trong tiểu thuyết Đỗ Phấn..........29 Chương 2. CÁC PHƯƠNG DIỆN CHỦ YẾU CỦA HIỆN THỰC ĐÔ THỊ ĐƯỢC PHÁN ÁNH TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN..................................................................................35 Sự xuống cấp của đạo đức, sự xáo trộn của các bảng giá trị................35 Sự cô đơn của con người......................................................................52 Sự xung đột giữa truyền thống và hiện đại..........................................62 Chương 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN HIỆN THỰC ĐÔ THỊ TRONG TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN...........................................71 Tiểu thuyết như là sự tập hợp nhiều câu chuyện nhỏ...........................71 Bút pháp trào lộng, giễu nhại và nhãn quan ngôn ngữ hậu hiện đại .....................................................................................................................74 Nghệ thuật xây dựng không gian đô thị và xây dựng chân dung con người đô thị..........................................................................................77 KẾT LUẬN....................................................................................................84 TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................86 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Hiện thực đô thị là một đề tài không phải mới trong văn học Việt Nam hiện đại, nhưng từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, nó đã được những người cầm bút quan tâm một cách đặc biệt. Chính sự quan tâm đó đã đưa đến nhiều kết quả đáng được ghi nhận, với một đội ngũ tác giả chuyên khai thác đề tài này và với những tác phẩm gây được tiếng vang rộng rãi trên văn đàn. Rõ ràng, đây là hiện tượng cần được tìm hiểu một cách sâu sắc, thấu đáo. Đỗ Phấn là một “ca” đặc biệt trong làng văn Việt Nam đương đại. Xuất thân là họa sĩ nhưng ông lại chọn văn chương như một điểm đến và có những thành công được văn giới thừa nhận, nhất là ở thể loại tiểu thuyết. Đô thị là đề tài chính trong tiểu thuyết của ông. Vậy, đâu là cái mới, là đóng góp riêng của Đỗ Phấn so với những nhà văn khác cùng quan tâm thể hiện đề tài này? Cho đến nay, đây còn là vấn đề chưa được chú ý nghiên cứu. Nói đến hiện thực đô thị thực ra chỉ là một cách để nói đến sự tồn tại của con người trong xã hội hiện đại với bao vấn đề nhức nhối của nó. Đỗ Phấn luôn ý thức được điều này. Bởi vậy, sáng tác của ông luôn gợi nghĩ đến những chuyện có tính phổ quát. Qua nghiên cứu tiểu thuyết Đỗ Phấn, hẳn nhiên ta sẽ có dịp hiểu thêm về những cách mà các nhà văn Việt Nam đã vận dụng để đưa tác phẩm của mình đạt tới tầm khái quát cao, đụng tới những vấn đề có ý nghĩa thời đại. 2. Lịch sử vấn đề Đối với nhiều người, trong đó có các nhà phê bình văn học, Đỗ Phấn có lẽ đang là một hiện tượng ít được biết tới. Vì vậy, những bài viết về tác giả này chưa nhiều. Tuy vậy, cũng có một số ít ý kiến đáng chú ý. 2 Tháng 10/2011 Dương Tử Thành trong bài Gã thị dân lạc lõng giữa 'Rừng người trên trang đã nêu lên tính mới, tính thời sự trong tiểu thuyết Đỗ Phấn “ ... Không phải ngẫu nhiên mà văn Đỗ Phấn nhận được sự cộng hưởng từ phía những người trẻ. Là bởi tính chất thời sự của vấn đề anh đặt ra, cách anh đào sâu vào những vấn đề của xã hội đương đại... luôn bám sát đời sống đương đại ... Có thể nói ít người theo đuổi, tha thiết với đô thị, nhìn nhận các vấn đề của đô thị một cách thấu triệt, mổ xẻ, tiên đoán, bắt bệnh cho nó nhiệt thành, cùng kiệt như Đỗ Phấn. Ở các tiểu thuyết của anh, người ta thấy một đô thị đang vỡ ra, đang bị cày xới, sục sạo trong cuộc chiến giữa bản thể và những lai tạp nhố nhăng”. Đoàn Ánh Dương, trong bài Lưỡng lự và chiêm nghiêm Văn nghệ, số 35 + 36 - 2011, đánh giá cao bút lực của Đỗ Phấn về mảng đời sống đô thị hiện đại “Trong mấy năm trở lại đây, từ hội hoạ chuyển sang lĩnh vực văn chương, Đỗ Phấn đã nhanh chóng khẳng định được bút lực của mình. Trong sáng tác của anh, đời sống đô thị hiện đại luôn hiện ra với nhiều dáng vẻ, khiến người đọc khó mà không suy ngẫm về nó … văn Đỗ Phấn sắc sảo đến chao chát trong việc lột tả hiện thực đời sống thị dân bát nháo”. Khẳng định những thành công của Đỗ Phấn ở phương diện kỹ thuật viết tiểu thuyết, Trần Nhã Thuỵ, trong bài Vừa nhớ vừa bịa, đăng cuối tiểu thuyết Vắng mặt Đỗ Phấn, Nxb Hội Nhà văn, 2010, viết “Không còn hư thực, lẫn lộn nữa, mà là vắng mặt. Con người soi gương và hốt hoảng không nhìn thấy khuôn mặt mình. Nhưng sản phẩm không “nói triết”, tác giả cũng loại trừ một lối viết ẩn dụ, hay huyền ảo, hay giễu cợt, hay luận đề… Tác giả chỉ tập trung làm rõ những tính chất của sự thật bằng cách lấy hiện thực làm chất lửa, và phổ lên đó cái giọng buồn, cái nụ cười thầm của mình”. Hoài Nam, trong bài Hai họa sĩ của làng văn Việt An ninh thế giới cuối tháng, số 133, tháng 9 - 2012, cho rằng “Đỗ Phấn viết cái gì và viết như 3 thế nào? “Đời sống thị dân bát nháo” - đó là một chủ đề trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, một chủ đề nằm trong phối cảnh chủ đề rộng hơn đời sống đô thị như nó đang diễn ra. Trên phương diện này, so với những nhà văn như Hồ Anh Thái hay Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn là người đến sau chính vì thế mà anh phải tìm và đã tìm được lối đi riêng của mình”. Bài Đỗ Phấn giữa chúng ta của Đoàn Ánh Dương đăng trên trang ra ngày 20/4/2012 đã đưa ra một số đối sánh, từ đó làm rõ thêm trong sáng tác của Đỗ Phấn như sau “... Nguyễn Việt Hà và Đỗ Phấn, đều từ các lĩnh vực khác muộn mằn đến với văn chương, mỗi người mỗi kiểu, mỗi cách và đều rất độc đáo. Ở Nguyễn Việt Hà, nó đọng ở cấu trúc nghệ thuật ngôn từ và ở Đỗ Phấn, nó lửng lơ ở ngoài cái cấu trúc ngôn từ nghệ thuật ấy ... Sáng tác của Đỗ Phấn không nhằm bày ra cho người đọc cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, cũng không tham vọng cao đàm khoát luận về giá trị, tư tưởng, tự do, chân lý. Nó chỉ bày ra một sự thụ cảm cuộc sống một cách có nghệ thuật”. Trên đây là các bài viết về tiểu thuyết Đỗ Phấn tuy chưa nhiều nhưng đều có những đánh giá khá “chụm” về thành công mảng đề tài đô thị của ông. 3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi tư liệu khảo sát Đối tượng nghiên cứu Hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. Phạm vi tư liệu khảo sát Tiểu thuyết của Đỗ Phấn - Vắng mặt, 2010 Nxb Hội Nhà văn - Công ty Bách Việt. - Rừng người, 2010 Nxb Phụ nữ. - Chảy qua bóng tối, 2011Nxb Trẻ. - Gần như là sống, 2013 Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh Các sáng tác khác của Đỗ Phấn - Chuyện vãn trước gương 2005 Tản văn, Nxb Hội Nhà văn. 4 - Kiến đi đằng kiến 2009, Tập truyện, Nxb Phụ nữ. - Đêm tiền sử 2009, Tập truyện, Nxb Hội Nhà văn. - Thác hoa 2010, Tập truyện, Nxb Quân đội nhân dân. - Ông ngoại hay cười 2011, Tản văn, Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Sáng tác của các nhà văn khác Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà… để so sánh, đối chiếu 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn nhằm tìm hiểu - Tiểu thuyết Đỗ Phấn trong bức tranh chung của văn xuôi Việt Nam hiện đại về đề tài đô thị. - Chiêm nghiệm về hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. - Nghệ thuật thể hiện hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau - Phương pháp hệ thống - cấu trúc. - Phương pháp miêu tả. - Phương pháp so sánh - đối chiếu. - Phương pháp phân tích - tổng hợp. 6. Cấu trúc luận văn Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển khai qua 3 chương Chương 1. Tiểu thuyết Đỗ Phấn trong bức tranh chung của văn xuôi Việt Nam hiện đại về đề tài đô thị Chương 2. Các phương diện chủ yếu của hiện thực đô thị được phản ánh trong tiểu thuyết Đỗ Phấn 5 Chương 3. Nghệ thuật thể hiện hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn 6 Chương 1 TIỂU THUYẾT ĐỖ PHẤN TRONG BỨC TRANH CHUNG CỦA VĂN XUÔI VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VỀ ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ Sự thể hiện đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam hiện đại Khái niệm đô thị Đô thị hoá là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển. Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, ở những mức độ khác nhau và với những sắc thái khác nhau, làn sóng đô thị hoá tiếp tục lan rộng như là một quá trình kinh tế, xã hội toàn thế giới - quá trình mở rộng thành phố, tập trung dân cư, thay đổi các mối quan hệ xã hội; quá trình đẩy mạnh và đa dạng hoá những chức năng phi nông nghiệp, mở rộng giao dịch, phát triển lối sống và văn hoá đô thị. Quá trình đô thị hoá ở Việt Nam tuy diễn ra khá sớm, ngay từ thời trung đại với sự hình thành một số đô thị phong kiến, song do nhiều nguyên nhân, quá trình đó diễn ra chậm chạp, mức độ phát triển dân cư thành thị thấp. Thập kỷ cuối thế kỷ XX mở ra bước phát triển mới của đô thị ở Việt Nam. Đặc biệt, sau khi Quốc hội Việt Nam ban hành Luật Doanh nghiệp năm 2000, Luật Đất đai năm 2003, Luật Đầu tư năm 2005; Chính phủ ban hành Nghị định về Qui chế khu công nghiệp, khu chế xuất năm 1997… nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vọt, gắn theo đó là sự hình thành trên diện rộng, số lượng lớn, tốc độ nhanh các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới và sự cải thiện đáng kể kết cấu hạ tầng ở cả thành thị và nông thôn. Làn sóng đô thị hoá đã lan toả, lôi cuốn, như thổi luồng sinh khí mới và tác động trực tiếp đến nông thôn, đời sống con người Việt Nam. Ở Việt Nam, theo Nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 5 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ Việt Nam về việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị, 7 đô thị là khu dân cư tập trung có những đặc điểm sau về cấp quản lí, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định thành lập; về trình độ phát triển, đô thị phải đạt được những tiêu chuẩn sau là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như vùng liên tỉnh, vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh, trong thành phố trực thuộc Trung ương; vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện. Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỉ lệ lao động phi nông nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ tầng phục vụ các hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế quy hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là 4000 người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km². Từ sau 1986, đất nước dường như đã dần “thay da đổi thịt”, con người Việt Nam lúc này đã có những sự thay đổi lớn trong đời sống. Với suy nghĩ và hiện thực cũng khác trước, họ đã dần dần khẳng định mình trong xã hội. Bộ mặt nông thôn ngày nay cũng khác nhiều so với trước đây. Người nông dân giờ đã không còn thô mộc như người nông dân xưa. Sự thay đổi ấy hiện dần lên từ manh quần, tấm áo lành lặn, sạch sẽ. Nhiều người đã rời bỏ công việc nặng nhọc mà trước phải dùng sức lực lao động thủ công thì giờ được thay thế bằng máy móc công nghiệp. Người ta có thời gian để nghe đài đọc báo nhiều hơn, quan tâm đến đời sống chính trị nhiều hơn. Từ đó trình độ dân trí của nông dân được nâng cao. Nền kinh tế thị trường dần lấn át vào đời sống con người. Đô thị hóa là một quá trình tất yếu. Việc ngăn chặn các luồng di dân từ nông thôn vào thành thị là không thực tế và không thể. Kinh nghiệm của các nước cho thấy, chỉ có thể làm chậm lại chứ không thể ngăn cản hoàn toàn quá trình đô thị hóa và những luồng di dân của người nghèo vào thành phố. 8 Cuộc sống đô thị trở nên hấp dẫn và cuốn hút hơn, con người muốn thay đổi cuộc sống của mình khi đặt chân lên thành thị. Từ những miền quê nghèo, người dân bước chân vào cuộc sống phồn hoa đô thị, với ước vọng đổi đời, nhưng vòng xoáy cuộc sống đã cuốn con người vào cơn lốc của cơ chế thị trường thời mở cửa. Có thể đấy là bước ngoặt lớn thay đổi vận mệnh con người, và cũng có thể đấy là bước chân hụt khi chạm tới môi trường thành thị. Theo Giáo sư Đặng Vũ Khiêu, nhà triết học, nhà nghiên cứu văn hóa “Dưới chế độ phong kiến, giữa nông thôn và thành thị là một khoảng cách quá xa. Thời gian gần đây, đặc biệt trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chúng ta thấy nông thôn đang xích lại gần hơn với thành thị. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã biến nền sản xuất nông nghiệp độc canh trở thành nền sản xuất hàng hóa đa ngành nghề. Lối sống thành phố du nhập vào nông thôn rất nhanh, tác động lớn tới cuộc sống, phong tục tập quán thôn quê Việt Nam và những giá trị văn hóa truyền thống lâu đời”. Nếu như ở nông thôn trước kia còn nhiều hủ tục, mê tín dị đoan thì nay đã bớt đi nhiều. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã đem lại rất nhiều thành tựu cho đất nước. Cái được là rất lớn. Những gì tốt đẹp mà đời sống vật chất đem lại cho con người đã nảy sinh dần dần trong nông thôn. Đời sống được nâng cao đã khiến cho người ta xây dựng lại nhà cửa đẹp, khang trang hơn. Đường sá nông thôn được trải nhựa, bê-tông sạch sẽ, đi lại thuận tiện. Người nông dân trước kia chỉ quanh quẩn trong thôn làng, giờ mở rộng quan hệ ra bên ngoài. Tuy nhiên, những nét đẹp truyền thống trong gia đình, họ hàng, làng xóm láng giềng cũng có phần bị tổn hại; một bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi; quan hệ con cái với cha mẹ trong một số gia đình ngày càng xa dần; thế hệ trẻ tiếp thu nhanh xu thế hiện đại, ngược lại với đa phần người cao tuổi cố giữ những giá trị truyền thống, dẫn tới những mâu thuẫn mới. 9 Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam trước 1945 đến năm 1975 Trong nhiều tác phẩm viết về đề tài đô thị thuộc giai đoạn văn học 1945 - 1975, các nhà văn đã tập trung miêu tả cuộc sống thành thị với cảm hứng phê phán những lối sống thực dụng, buông thả, không lý tưởng, coi đồng tiền là trên hết, bất chấp luân thường, đạo lý. Tiểu thuyết Cô Lan của Anh Huy, Hai dòng con của Hoàng Thị Như Mai… là sự cảnh báo về sự xuống cấp về mặt đạo đức, sự tha hóa của tầng lớp trí thức trước làn sóng vật chất và văn minh phương Tây. Lan trong Cô Lan là người có học nhưng cuối cùng gặp phải những trắc trở trong cuộc đời cũng bởi cô coi thường các giá trị truyền thống để chạy theo lối sống thực dụng, mờ mắt trước đồng tiền và cuộc sống xa hoa nơi phố thị. Lan sống trong một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Mẹ nàng vốn là một gái bán hương, vì cuộc sống mưu sinh đã làm vợ bé ông Mộc, chủ nhà nghỉ Mộc Hương. Cuộc sống mẹ con Lan thay đổi từ đó. Lan sống trong nhung lụa, lớn lên xinh đẹp. Thế rồi nàng yêu Trúc, con riêng của Mộc. Trúc qua Pháp du học, Lan ở nhà buồn bã tìm đến rượu và thú vui khiêu vũ. Nàng bị giáo sư khiêu vũ chuốc rượu và cưỡng hiếp. Nàng được ông Mộc đưa đến nhà bác sĩ Hại để bỏ cái thai. Sau đó Lan bị Hại cưỡng dâm nhiều lần. Cuộc đời của Lan bắt đầu trượt dốc và nàng trở thành món đồ chơi của Mộc. Toàn bộ cuộc sống tủi nhục của Lan được cô viết thành thiên phóng sự xã hội Một thế giới hỗn loạn. Trong thế giới ấy, mọi giá trị đạo đức truyền thống dường như bị đảo lộn hoàn toàn. Sự sa ngã của con người trước đồng tiền cũng được các nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả với cảm hứng phê phán. Trong rất nhiều cuốn tiểu thuyết, đồng tiền phi nghĩa lắm lúc là tác nhân gây nên bi kịch của gia đình, bi kịch cá nhân. Cuộc sống vật chất cũng đã làm cho Cẩm Tâm trong Hai dòng con từ một cô gái hiền lành trở thành kẻ phá nát sự nghiệp của cha, đẩy hai người anh đến cảnh khốn cùng. Bản thân Cẩm Tâm cũng phải nhận lấy cái chết đau đớn và để lại các con còn thơ dại. Điều đáng 10 nói là qua hình tượng nhân vật Lan, Cẩm Tâm tác giả cũng đã chỉ ra sự lầm lạc của họ phần là do hoàn cảnh xã hội tạo nên và cần phải cải tạo xã hội. Đó là một cái nhìn sâu sắc, tiếng nói đầy trách nhiệm của nhà văn đối với cuộc sống con người và xã hội. Trong lời giới thiệu thiên phóng sự Một thế giới hỗn loạn của Ly Thôn, nhà văn Anh Huy đã cho thấy phần nào ý hướng đó “Cô Lan, nhân vật chánh trong thiên phóng sự này là hình ảnh của một số gái Việt và có lẽ cũng là hình ảnh của tôi, đang cùng sống trong một hoàn cảnh ngặt nghèo nếu không gọi là số kiếp… Giờ đây mời bạn hãy đi sâu vào lòng xã hội để cùng tôi chiêm nghiệm ít cảnh đời. Ước ao đây chỉ là một chuyến đò đang qua một khúc sông đêm để đi đến một bến mai tươi sáng”. Trong giai đoạn này ta không thể không nhắc tới Tự Lực văn đoàn. Tự Lực văn đoàn chính thức thành lập năm 1933, gồm có Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, Khái Hưng Trần Khánh Giư, Hoàng ạo Nguyễn Tường Long, Thạch Lam Nguyễn Tường Lân, Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Thế Lữ Nguyễn Thứ Lễ. Về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu em Khái Hưng" theo tài liệu của Trương Chính. Các nhà văn cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này là Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, oàn Phú Tứ. Cơ quan ngôn luận của văn đoàn là tờ báo Phong hóa, khi Phong hóa bị đóng cửa năm 1936 thì có tờ Ngày nay thay thế. Khi ra đời, Tự Lực văn đoàn có đề ra tôn chỉ mục đích rõ ràng "Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. Theo chủ nghĩa bình dân, không có tính cách trưởng giả quý phái. Tôn trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết đạo Khổng không hợp thời nữa. em phương pháp Thái Tây áp dụng vào văn chương An Nam". Sau khi khởi nghĩa Yên Bái vào đêm mồng 9 tháng 2 năm 1930 bị thất bại, một không khí chán nản, u hoài, yếm thế bao trùm đời sống. Thanh niên lớn lên không còn có lý tưởng để phụng sự. Con đường yêu 11 nước bế tắc, họ thoát ly trong những tình cảm cá nhân nhất là yêu đương. Thơ văn ái tình lãng mạng bắt đầu từ đấy. Chính thời 1930 văn học đã đẻ ra những nhân vật điển hình như Tố Tâm, ạm Thủy. Rồi thơ của bà Tương Phố, ông ông Hồ, người chết chồng, kẻ chết vợ, họ khóc lóc nỉ non, khơi mào cho các nhà văn lãng mạn lớp sau đi sâu vào tình yêu để rồi phô diễn thành vần thành điệu. Tự Lực văn đoàn đề ra mục đích tôn chỉ "lúc nào cũng trẻ, yêu đời" là muốn phá tan cái không khí u uất, sầu thảm kia. Trong hoàn cảnh xã hội thời Pháp thuộc, cái nhân văn tiểu tư sản đó tiến bộ nhiều hơn so với cái nhân văn cổ hủ, hẹp hòi thời phong kiến. Trong tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn thanh niên chưa dám đứng lên cứu nước, đang tìm mọi cách thoát ly thực tế đời sống. Vui, cũng để mà quên. ối với họ than vãn là lạc hậu, nói như Nhất Linh trong lời tựa cuốn Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng. Tâm hồn họ "phảng phất vui lẫn buồn tựa như những ngày thu nắng nhạt điểm mưa thưa". Từ sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc vào năm 1954, số tác giả viết về hiện thực đô thị tuy không nhiều nhưng thành tựu sáng tác trên đề tài này thì rất đáng chú ý. Năm 1961, Nguyễn Huy Tưởng 1912-1960 hoàn thành tiểu thuyết Sống mãi với thủ đô. Hà Nội vẫn là địa bàn cho Nguyễn Huy Tưởng dồn tất cả tâm huyết của mình; vẫn là nơi ông gửi gắm những khát vọng sáng tạo của mình để có một Sống mãi với thủ đô mang tầm vóc sử thi về 3 ngày đêm chiến đấu của quân dân Thủ đô. Trong Sống mãi với thủ đô, Nguyễn Huy Tưởng vẫn tiếp tục chọn Hà Nội làm bối cảnh hoạt động cho thế giới nhân vật của mình. Nhưng lần này có khác trước, lần này là một Hà Nội “đa thanh”, phức tạp và nhiều vẻ. Một Hà Nội của nhiều Hà Nội Hà Nội phù hoa, Hà Nội thượng lưu, Hà Nội lao động, Hà Nội lầm than, Hà Nội của mọi lớp người... Miêu tả Hà Nội trong vẻ toàn vẹn và phức tạp của nó, Nguyễn Huy Tưởng đã 12 có những cố gắng lớn để mở rộng thế giới nhân vật. Nhiều trang Sống mãi với thủ đô rạo rực một không khí hùng tráng của sử thi. Đọc truyện, ta khó theo dõi được thời gian, ta bị cuốn đi trong những diễn biến lớn lao, căng thẳng của cuộc đời, tưởng như đã xảy ra hàng năm hàng tháng, nhưng thật ra chỉ có mấy ngày đêm. Không khí loãng tan xao xác dưới những mái trường. Quang cảnh rạo rực chuẩn bị kháng chiến trên từng khu phố, góc nhà, đến buổi chiều ở vườn hoa Cửa Nam, người Hà Nội vẫn vây quanh một anh thợ nặn, sống nốt quang cảnh yên bình cuối cùng khi chung quanh đã ngột lên mùi tanh giá của chiến tranh. Từng chuyến tàu vội vã. Đêm tản cư. Những buổi chia tay. Vụ thảm sát Yên Ninh. Những trận đánh giằng co, căng thẳng ở Bắc Bộ Phủ, ở nhà bưu điện Bờ Hồ... Tiếng cười nói, tiếng súng đạn, tiếng trẻ bán báo, rao hàng, tiếng cười ấm áp, tiếng sinh hoạt của đời... bản hoà tấu của nhiều âm thanh khác nhau đó trong truyện, nghe khác hẳn tiếng gõ quan tài bi thảm trong kịch Những người ở lại. Nguyễn Đình Thi 1924 - 2003 tác giả của bài hát Người Hà Nội và những bài thơ hay về Hà Nội cũng là người sớm đến với văn xuôi. Nói văn xuôi của Nguyễn Đình Thi trước hết là nói về bộ tiểu thuyết Vỡ bờ, 2 tập, ra đời trong khoảng 10 năm 1962 - 1970. Vỡ bờ bao quát một phạm vi hiện thực rộng, gồm hoạt động của nhiều lớp người trên ba địa bàn Hà Nội - Hải Dương - Hải Phòng. Có nông dân, công nhân, trí thức, dân nghèo thành thị; có địa chủ, tư sản, tư sản mại bản, và bọn tay sai Nhật - Pháp; có hoạt động của người cách mạng. Bộ mặt kẻ thù trong cấu kết giữa Pháp - Nhật, trong hoạt động của các tầng lớp địa chủ, tư sản, quan lại - như Nghị Khanh, Huyện Môn, Ích Phong... nhằm tạo ra tình thế tương phản, và làm nên một cái nền tối cho bức tranh... Cố gắng của tác giả Vỡ bờ là ở chỗ, với lượng trang khá lớn, tác giả đã đặt các nhân vật, gồm nhiều loại, trong các mối quan hệ qua lại. Và đó là ưu thế cần phải có khi thế 13 giới nhân vật được mở rộng ra nhiều tầng lớp, và hoạt động trên một không gian rộng, gắn nối với Hà Nội. Hơn 30 năm đất nước trong chiến tranh, đề tài trung tâm của văn học đương nhiên phải là đề tài chiến tranh. Trong số hàng trăm tiểu thuyết, có gắn với đề tài về đô thị đặc biệt là đề tài Hà Nội, có nhân vật là người Hà Nội hoặc có địa bàn hoạt động ở Hà Nội có thể kể đến Vùng trời 3 tập - 1971, 1974, 1980 của Hữu Mai 1926-2007, Những tầm cao 2 tập - 1973, 1977 của Hồ Phương cho đến Lửa từ những ngôi nhà 1977 của Nguyễn Minh Châu 1930-1989... Đây là những cuốn tiểu thuyết in đậm dấu ấn một thời hào hùng và bi tráng của dân tộc, được viết trong cảm hứng khẳng định vẻ đẹp và sức mạnh của nhân dân, dẫu ở vị trí nào cũng đều có tư cách người chiến sĩ... Đề tài đô thị trong văn xuôi Việt Nam sau năm 1975 Văn học thời kì này với lăng kính đa chiều, dưới nhiều góc độ quan sát khác nhau, tạo nên những mảng màu chân thực, sống động và đa dạng của cuộc sống muôn mặt đời thường. Dưới ống kính soi chiếu này, con người trong tiểu thuyết Việt Nam hiện lên rất phức tạp, là sự đan cài nhiều tính cách khác nhau trong một con người. Đó là Mùa lá rụng trong vườn 1984 của Ma Văn Kháng; Cuốn gia phả để lại 1988 của Đoàn Lê. Một đi vào những rạn vỡ trong đời sống gia đình trước sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường. Một đi vào vấn đề gia tộc và dòng họ với những lủng củng, xung đột, bất an, vẫn là do sự chi phối của đồng tiền. Một tiểu thuyết mang tên Phố 1993 của Chu Lai lấy đề tài từ “phố nhà binh”. Chỉ riêng tên truyện cũng đã gợi nên những góc nhìn mới, những sắc màu lạ trong cái thời đất nước mở cửa... Đến cả những pháo đài kiên cố nhất như “phố nhà binh” cũng không tránh được những rạn vỡ, lung lay để có một hình hài mới cho cả phần xác và phần hồn của nó. Đã đi qua thời kì chiến tranh 14 bom đạn, thời kì hoà bình, đời sống được nâng lên tầm cao mới, con người mới được thể hiện qua tác phẩm với nhiều phương diện khác nhau. Quan niệm về con người trong văn học sau 1986 là một quan niệm đầy biện chứng. Con người ở đây hiện lên chân thực như nó vốn có, không bị thần thánh hoá, lí tưởng hoá. Họ được đặt trong bầu không khí ngổn ngang của hiện thực, sự xô bồ của thời buổi kinh tế thị trường, trước sự bon chen, tranh dành quyền lợi của con người. Chính vì thế, khi đọc tiểu thuyết hôm nay người đọc như nhận diện được chính mình, mọi người xung quanh mình, xã hội mình đang sống một cách trung thực và trọn vẹn hơn, không tô hồng hay bóp méo sự thật, đó là hiện thực vốn có không phải là hiện thực như mình mong muốn. Chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước ta đã thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách mạnh mẽ và thu được nhiều thắng lợi. Vị trí nước ta trên trường quốc tế được nâng cao, đời sống người dân được cải thiện vượt bậc. Đất nước bước sang một thời đại mới với những bước ngoặt to lớn có nhiều cơ hội và thách thức. Tốc độ đô thị hoá diễn ra nhanh chóng làm cho bộ mặt nước ta mang một sắc diện mới. Bên cạnh sự phát triển đó chúng ta phải gánh chịu những hậu quả của nền kinh tế thị trường, tác động đến văn hoá truyền thống và nguy hại hơn nó làm thay đổi lối sống, đạo đức của người Việt Nam. Con người đứng trong vòng xoáy của quá khứ, hiện tại và tương lai, có người không định hướng được cho hành động của mình, sự thực ấy dẫn họ đến với những cú sốc nặng nề về tâm lý. Họ lạc vào vòng quay của cuộc sống mới, sự cạnh tranh của kinh tế hàng hoá và buông mình theo lối sống thực dụng, bất chấp luân lý, nền tảng đạo đức truyền thống bị sa sút nghiêm trọng. Thực trạng phi lý và cay đắng đó đang làm tha hoá cái thế giới tinh thần mà bấy lâu nay ta hằng coi trọng và giữ gìn. Hiện thực đời sống thành thị thời hậu chiến với những vấn đề gai góc cũng được ngòi bút Lê Lựu quan tâm khai thác. Nếu như ở phần hai của Thời 15 xa vắng, quãng đời bi kịch tiếp theo của Sài đã cho thấy phần nào mặt trái của cơ chế quan liêu bao cấp, sự phức tạp xô bồ nơi phố phường thì ở Hai nhà phạm vi và cấp độ phản ánh hiện thực được mở rộng, nâng cao hơn. Tái hiện lại một thời thiếu thốn và khó khăn, Lê Lựu nhìn thấy những bất hợp lý trong cơ chế xã hội. Nhà văn khái quát hóa lối sống thực dụng, ích kỷ đang dần hình thành. Đó còn là sự tấn công mạnh mẽ từ bên ngoài vào “tế bào” gia đình làm tan rã mô hình gia đình truyền thống. Bằng cái nhìn sắc sảo, ráo riết, Lê Lựu phân tích, lý giải những biến động của đời sống xã hội, sự tác động đến số phận con người. Hai nhà mở dần từng ô cửa để thấy được thực chất “ngôi nhà” bên trong, mỗi cánh cửa hé mở là mỗi lần thôi thúc sự dò tìm của người đọc lần thứ nhất mượn lời người chú rể của Linh Anh để tiết lộ quá khứ của cô gái thành thị lọc lõi, hư hỏng; lần thứ hai nhấm nháp từng trang nhật ký của cô ta để vén thêm bức màn bí mật về những hoan lạc của thời con gái buông thả, những cảm giác bức bối khi phải sống với người chồng không như mong ước, những thèm khát dẫn tới cuộc tình vụng trộm và trận đánh ghen bẽ bàng; lần thứ ba bức thư tuyệt mệnh của ông Địa đã xé toang tất cả, làm rõ vì sao lại có cái chết oan uổng của thằng cháu ngoan ngoãn, học giỏi và được tất cả mọi người yêu mến. Không chỉ phê phán sự tha hóa, cái xấu xa, ông cảm nhận thấm thía những lầm lẫn, hạn chế của cả một thời. Nhận thức quá khứ và thực trạng đời sống, tiểu thuyết Lê Lựu còn có khả năng dự báo xu thế phát triển tất yếu và những đổi thay trong xã hội. Có thể nói đây là sự khởi đầu của dòng văn học “tự vấn”, một hướng đi mới của tiểu thuyết nước ta mà trước đó chưa có. Nỗi buồn chiến tranh 1990 của Bảo Ninh là một bổ sung cần thiết cho bức tranh thấm đẫm không khí anh hùng một thời của dân tộc, qua tính cách và số phận một chiến binh, từ là anh lính trinh sát trong chiến tranh, được sống để trở về, rồi trở thành “nhà văn phường” có nơi sinh và nơi ở là Hà Nội.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH VÕ HÙNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGHỆ AN - 2015 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH VÕ HÙNG ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN Chuyên ngành Văn học Việt Nam Mã số LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Người hướng dẫn khoa học TS. LÊ THANH NGA NGHỆ AN - 2015 MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU...........................................................................................................1 1. Lí do chọn đề tài.........................................................................................1 2. Lịch sử vấn đề............................................................................................2 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát....................................4 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.............................................................4 5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................5 6. Cấu trúc của luận văn.................................................................................5 Chương 1. ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN........................................................................................................6 Khái niệm nhân vật, các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn ........................................................................................................................6 Khái niệm nhân vật...........................................................................6 Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.............................9 Bi kịch của nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.............................23 Nhân vật mang bi kịch đỗ vỡ các chuẩn mực giá trị......................23 Con người với tham vọng và sức mạnh đồng tiền..........................26 Bi kịch mất niềm tin.......................................................................27 Bi kịch “gần như là sống”...............................................................29 Hình tượng con người trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn..........................31 Con người bé nhỏ, tự ti, mặc cảm và vô dụng................................32 Con người cô đơn...........................................................................33 Con người tha hóa...........................................................................35 Tiểu kết chương 1.........................................................................................38 Chương 2. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN.......................................................................................................39 1 Cấu trúc trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn trong xu thế chung của tiểu thuyết đương đại...................................................................................39 Cấu trúc văn bản tiểu thuyết.................................................................40 Sự phân bố không đồng đều giữa các chương................................40 Sự kết hợp của nhiều phong cách văn bản......................................47 Kết cấu cốt truyện.................................................................................48 Kết cấu dán ghép............................................................................48 Kết cấu song song...........................................................................51 Kết cấu tuyến tính...........................................................................52 Cấu trúc thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn...............54 Khái niệm thời gian nghệ thuật......................................................54 Thời gian sinh hoạt đời thường.......................................................55 Thời gian hồi tưởng........................................................................59 Thời gian ước lượng, tượng trưng..................................................63 Tiểu kết chương 2.........................................................................................65 Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGÔN TỪ VÀ NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN....................................67 Sự độc đáo của lớp ngôn từ miêu tả......................................................67 Ngôn ngữ khắc họa chân dung nhân vật.........................................68 Sự uyển chuyển của lớp từ ngữ gợi cảm giác.................................72 Sự đa sắc thái trong giọng điệu.......................................................75 Kết cấu ngôn ngữ nghệ thuật tiểu thuyết của Đỗ Phấn.........................80 Hòa trộn lời kể, tả, bình luận..........................................................80 Hạn chế đối thoại, gia tăng độc thoại.............................................85 Nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn...........................89 Người kể chuyện ngôi thứ ba- khách quan hóa câu chuyện...........89 Người kể chuyện ngôi thứ nhất - cái tôi thứ hai của nhà văn.........96 Tiểu kết chương 3.......................................................................................100 KẾT LUẬN..................................................................................................101 DANHMỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................104 1 2 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Tiểu thuyết được coi là "cỗ máy cái" trong văn học hiện đại xét ở khả năng khái quát hiện thực, khả năng phản ánh không chỉ đời sống của một, mà là là sự cộng sinh thể loại. Sự vận động của văn học Việt Nam đương đại cho thấy tiểu thuyết đã thực sự xứng đáng với những gì người ta đã từng nghĩ về nó, ở tư cách là một thể loại tiên phong trong sự khái quát hiện thực, trong sự làm mới đời sống văn học. Nghiên cứu tiểu thuyết chính là góp phần tìm hiểu diện mạo văn học Việt Nam đương đại, và những thành tựu của bản thân thể loại này. Là một họa sĩ, nhưng khi đến với văn chương, thể nghiệm, và rồi dần dần khẳng định ở thể loại tiểu thuyết, Đỗ Phấn, với một phong cách riêng, tạo được ít nhiều dấu ấn trong lòng bạn đọc. Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn là góp phần tìm hiểu thêm một khía cạnh thú vị của sáng tạo văn học nó luôn mời gọi và mở lòng đón nhận, thậm chí hào phóng mang đến những thành tựu cho bất cứ ai có tài năng và đam mê. Đấy cũng là một điểm rất quan trọng của văn học trong thế giới phẳng ngày nay. Là một người sinh ra vào những năm năm mươi của thế kỉ trước. Bằng cái lịch lãm của một người xứ Bắc, bằng cái từng trải của một người đã rất quen thuộc với đời sống đô thị, chứng kiến sự vận động của đời sống kinh tế - xã hội ở trung tâm, và bằng con mắt quan sát của một họa sĩ, Đỗ Phấn đã bằng tiểu thuyết của mình, khái quát một cách khá sâu sắc và thành công nhiều mặt của đời sống, từ đó gửi đến người đọc những thông điệp có giá trị về cuộc sống, phận người... Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn là góp phần chỉ ra những nét dáng nhất định trong trạng thái của tồn tại, của nhân sinh. 3 2. Lịch sử vấn đề Mặc dù xuất hiện chưa lâu, và cũng không phải bắt đầu khởi nghiệp từ văn chương như nhiều tác giả tiểu thuyết khác, nhưng các sáng tác, cũng như tiểu thuyết của Đỗ Phấn, đã thu hút được sự chú ý của nhiều người nghiên cứu. Tuy nhiên, theo khảo sát của chúng tôi, những đánh giá về các sáng tác của Đỗ Phấn nhưng phần lớn chỉ đánh giá ở mức độ riêng lẻ. Cụ thể đã có một số bài nghiên cứu về đề tài hiện thực đô thị trong tiểu thuyết... và tản văn. Về cơ bản, những nghiên cứu về Đỗ Phấn tập trung trên mấy nét cơ bản sau - Khẳng định những thành công của Đỗ Phấn ở phương diện kĩ thuật viết tiểu thuyết. Trần Nhã Thụy trong bài “Vừa đi vừa bịa” đăng trong tiểu thuyết Vắng mặt, Nxb Hội nhà văn, 2010 viết “Không còn hư thực lẫn lộn nữa mà là vắng mặt. Con người soi gương mà hốt hoảng không nhìn thấy khuôn mặt mình. Nhưng sản phẩm không “Nói triết”, Tác giả cũng loại trừ một lối viết ẩn dụ, hay huyền ảo, hay diễu cợt, hay luận đề... Tác giả không chỉ tập trung làm rõ những tính chất của sự thật bằng cách lấy hiện thực làm chất lửa và phổ lên đó là cái giọng buồn, cái nụ cười thầm của mình”. - Bài Đỗ Phấn giữa chúng ta của Đoàn Ánh Dương đăng trên trang http //vanchuong ra ngày 20 tháng 4 năm 2012 đã đưa ra một số đối sánh để làm rõ thêm trong sáng tác của Đỗ Phấn “... Nguyễn Việt Hà và Đỗ Phấn đều từ các lĩnh vực khá muộn màng đến với văn chương, mỗi người một kiểu, mỗi cách và đều độc đáo. Ở Nguyễn Việt Hà nó đọng lại ở cấu trúc nghệ thuật ngôn từ và Đỗ Phấn, nó lửng lơ ở ngoài cái cấu trúc ngôn từ nghệ thuật ấy .. Sáng tác của Đỗ Phấn không nhằm bày ra cho người đọc cấu trúc ngôn từ nghệ thuật, cũng không tham vọng cao đàm khoát luận về giá trị, tư tưởng, tự do, chân lý. Nó chỉ bày ra một sự thụ cảm cuộc sống một cách có nghệ thuật”. - Trong trang tác giả Hoài Nam viết “Nếu bạn đọc tìm ở tiểu thuyết Đỗ Phấn một câu chuyện thì sẽ không thấy, nhưng anh ta tạo ra cảm giác về đời sống”. Hoài Nam nói rằng, không nên tìm Đỗ 4 Phấn ở việc làm mới một cái gì cả, anh chỉ là người kể chuyện, kể lại những gì đã chứng kiến. Và như nhiều người vẫn nhận xét, dù nghiệp văn của Đỗ Phấn chỉ trung thành với một đề tài Hà Nội thì theo Hoài Nam “Mỗi cuốn sách của ông vẫn là một thế giới khác”. - Trên đây là một số ý kiến đánh giá về tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Tuy còn ít nhưng cũng phần nào giúp chúng ta hiểu về đặc điểm tiểu thuyết Đỗ Phấn. Qua những ý kiến trên chúng tôi sẽ tiếp thu để bổ sung thêm trong luận văn của mình đồng thời cũng làm căn cứ để đánh giá về đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Những năm gần đây, tiểu tuyết của Đỗ Phấn đã trở thành đề tài nghiên cứu ở một số trường đại học, đặc biệt là ở bậc đào tạo thạc sĩ. Luận văn Thạc sĩ đầu tiên được thực hiện ở trường đại học Vinh của học viên Trần Kim Dũng với đề tài Hiện thực đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn đã khảo sát một cách toàn diện về hiện thực đô thị đặc biệt là mối quan hệ giữa hiện thực đô thị và con người đô thị trong cơn xoáy lốc của cơm áo, gạo tiền. Luận văn Thạc sĩ thứ hai được thực hiện ở Đại học Sư phạm Huế là của học viên Tăng Thị Thúy Tiền với đề tài Cảm thức hiện sinh trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, đã khai thác một cách có hệ thống về tiểu thuyết Đỗ Phấn dưới góc nhìn của chủ nghĩa hiện sinh. Trong luận văn này, những kiểu con người đã được tác giả khai thác một cách thấu đáo, đặc biệt là kiểu con người vong thân và kiểu con người tự lưu đày. Tác giả luận văn đã cho chúng ta thấy được sự tương đồng trong cảm hứng sáng tác và quan trọng hơn nữa là đem đến cho sự nhân bản cho con người, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, hay xã hội nào thì quyền được sống đúng với bản chất của con người là quyền cơ bản nhất. Khi lựa chọn đề tài này, chúng tôi đã khảo sát những văn bản trên và đã mạnh dạn thực hiện đề tài với hy vọng đóng góp một phần cho việc hệ thống hóa đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn và nhìn nhận vai trò Đỗ Phấn trong diện mạo tiểu thuyết nước nhà đương đại. 5 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi tư liệu khảo sát Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn Phạm vi tư liệu khảo sát Để thực hiện đề tài này, chúng tôi khảo sát toàn bộ 7 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Phấn Vắng mặt, NXB Bách Việt, Hà Nội. Rừng người, NXB Phụ Nữ, Hà Nội. Chảy qua bóng tối, NXB Trẻ, Hà Nội. Con mắt rỗng, NXB Văn Học, Hà Nội. Rụng xuống ngày hư ảo, NXB Trẻ, Hà Nội. Ruồi là ruồi, NXB Trẻ, Hà Nội. Gần như là sống, NXB Trẻ, Hà Nội. Ngoài ra còn khảo sát thêm truyện vừa Dằng dặc triền sông mưa, NXB Trẻ, Hà Nội 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu Tìm hiểu các tiểu thuyết của Đỗ Phấn, chỉ ra những đóng góp của nhà văn trong việc khái quát bức tranh đời sống, cũng như đóng góp của ông cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại trên một số bình diện nghệ thuật. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn hướng đến ba nhiệm vụ chính Tìm hiểu đặc điểm của thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn trên bình diện cấu trúc. 6 Nghiên cứu đặc điểm ngôn từ và nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn. 5. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp hệ thống - cấu trúc - Phương pháp so sánh đối chiếu - Phương pháp phân tích tổng hợp - Phương pháp so sánh 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, đề tài của chúng tôi được triển khai thành 3 chương Chương 1 Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Chương 2 Đặc điểm cấu trúc trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Chương 3 Đặc điểm ngôn từ và nghệ thuật kể chuyện trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn 7 Chương 1 ĐẶC ĐIỂM NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN Khái niệm nhân vật, các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Khái niệm nhân vật Nhân vật văn học đóng vai trò trung tâm trong tác phẩm văn chương. Nhân vật trong tác phẩm văn chương chính là "bản sao" của hình ảnh con người và cuộc sống con người. Đó là tiếng nói của thế giới nội tâm con người và cũng là tấm gương phản chiếu xã hội loài người nên không phải ngẫu nhiên mà M. Gorky đã từng phát biểu rằng “văn học là nhân học”. Theo Từ điển thuật ngữ văn học Nhân vật văn học được định nghĩa là “Con người cụ thể được miêu tả trong các tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có tên riêng Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha, cũng có thể không có tên riêng như “thằng bán tơ”, “một mụ nào” trong Truyện Kiều. Trong truyện cổ tích, ngụ ngôn, đồng thoại, thần được đưa ra để nói chuyện với con người. Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không chỉ một con người cụ thể nào cả, mà chỉ một hiện tượng nỗi bật trong tác phẩm. Chẳng hạn có thể nói nhân dân là nhân vật chính trong Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, đồng tiền là nhân vật chính trong Ơgiênni Grăngđê của Bandắc. Nhân vật văn học là một đơn vị nghệ thuật đầy tính ước lệ, không thể đồng nhất nó với con người có thật trong đời sống. Chức năng cơ bản của nhân vật văn học khái quát tính cách của con người. Do tính cách là một hiện tượng xã hội, lịch sử, nên chức năng khái quát tính cách của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử. trong thời đại xa xưa, nhân vật văn học của thần thoại, truyền thuyết thường khái quát năng lực 8 và sức mạnh của con người Nữ Oa đội đá vá trời, Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra trăm trứng…. Ứng với xã hội phân chia giai cấp, nhân vật của truyện cổ tích lại khái quát các chuẩn mực giá trị đối kháng trong quan hệ giữa người và người như thiện với ác, trung với ninh, thông minh với ngu đần… Vì tính cách là kết tinh của môi trường, nên nhân vật văn học là người dẫn dắt độc giả vào các thế giới khác nhau của đời sống. Nhân vật văn học còn thể hiện quan niệm nghệ thuật và lý tưởng thẩm mĩ của nhà văn về con người. Vì thế, nhân vật luôn gắn chặt với chủ đề tác phẩm. Nhân vật văn học được miêu tả qua các biến cố, xung đột, mâu thuẫn và mọi chi tiết các loại. Đó là mâu thuẫn của nội tâm nhân vật, mâu thuẫn giữa nhân vật này với nhân vật khác, giữa tuyến nhân vật này với tuyến nhân vật kia. Cho nên, nhân vật luôn được gắn liền với cốt truyện. Nhờ được miêu tả qua xung đột, mâu thuẫn, nên khác với hình tượng hội họa và điêu khắc, nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động, có tính cách, được bộc lộ dần trong không gian, thời gian, mang tính chất quá trình. Từ những góc độ khác nhau có thể chia nhân vật văn học thành nhiều kiểu loại khác nhau. - Dựa vào vị trí đối với nội dung cụ thể, với cốt truyện của tác phẩm, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính và nhân vật phụ. - Dựa vào đặc điểm của tính cách, việc truyền đạt lí tưởng của nhà văn, nhân vật văn học được chia thành nhân vật chính diện và nhân vật phản diện. - Dựa vào thể loại văn học, ta có nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân vật kịch. - Dựa vào cấu trúc hình tượng, nhân vật được chia thành nhân vật chức năng hay mặt nạ, nhân vật loại hình, nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng” [19; 202 - 203]. Từ những tiêu chí trên về nhân vật, khi soi chiếu với toàn bộ tiểu thuyết Đỗ Phấn, chúng ta có thể nhận thấy rằng, nhân vật trong tiểu thuyết 9 Đỗ Phấn vẫn mang những tiêu chí về nhân vật như chúng ta lâu nay vẫn quan niệm. Tuy nhiên, có những đóng góp không nhỏ của ông trong việc đem đến một cách nhìn khác về nhân vật. Nhân vật của ông được xây dựng dựa trên sự cảm nhận và sự ghép nối của chính người đọc. Khi xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật chính, Đỗ Phấn xóa nhòa gần như toàn bộ chân dung của nhân vật, ông chỉ dừng lại ở việc gợi chứ không tả. Chính vì thế, nhân vật của ông mang tính biểu tượng rất cao, đó có thể là một ai đó ta có thể bắt gặp bất cứ đâu, hoặc đó cũng có thể là chính ta, hay đó cũng chính là một phần của nhà văn. Trong 7 cuốn tiểu thuyết của Đỗ Phấn mà chúng tôi khảo sát thì, trừ hai cuốn Ruồi là ruồi và Chảy qua bóng tối, 5 nhân vật trong 5 cuốn tiểu thuyết còn lại của ông đều có chung một kiểu nhân vật đó là những người đàn ông trung niên độc thân, họ đều là trí thức, họ có cuộc sống thân phận, bé nhỏ và tự nhân thấy mình như phần thừa của xã hội. Phần nhân vật còn lại trong tiểu thuyết của ông viết về những thị dân sống ở Hà Nội mà cuộc sống của họ từng ngày qua là những chật vật mưu sinh đầy khốn khó và đánh đổi. Qua hệ thống nhân vật đầy tính biểu tượng đó, chúng ta nhận thấy được quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn. Đó là những thân phận cô đơn, xa lạ với cuộc đời thực. Họ là những con người mang thương tích và bi kịch. Từ những tiêu chí trên và thông qua việc khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Phấn, ở chương này, chúng tôi khảo sát các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của ông để từ đó mà khái quát nên những kiểu con người trong tiểu thuyết của ông. Thông qua đó, chúng ta thấy được sự “hạnh phúc trong bất hạnh” [23] của nhà văn trong việc tái hiện và thấu thị được nỗi đau của kiếp nhân sinh và cái nhìn hết sức tinh tế và chân thực của ông trong việc thức tỉnh lương tri con người. 10 Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn Những người đàn ông trí thức trung niên độc thân Như chúng tôi đã trình bày ở trên, thì 5 trong 7 cuốn tiểu thuyết của Đỗ Phấn chúng ta thấy có hiện tượng lặp lại kiểu nhân vật chính là những người đàn ông trí thức trung niên độc thân. Tuy nhiên, kiểu nhân vật này không đem đến cho người đọc sự nhàm chán mà ngược lại, đem đến cho người đọc một cách nhìn khác về thân phận con người. Kiểu nhân vật này xuất hiện trong tiểu thuyết Đỗ Phấn thường ở độ tuổi từ 45 đến 55, họ đều là thành phần trí thức với những công việc và tình trạng hôn nhân như sau TT Nhân vật Tình trạng hôn nhân Tiểu thuyết Nghề nghiệp 1 Vũ Độc thân Vắng mặt Họa sĩ 2 Văn Độc thân Rừng Người Kỹ sư kinh tế xây dựng 3 Thế Hoàng Độc thân Con mắt rỗng Họa sĩ 4 Thành Gần như là sống Kiến trúc sư, họa sĩ 5 Đức Ly hôn Độc thân Rụng xuống ngày hư ảo Nhà báo Theo quan niệm của người Phương Đông thì độ tuổi từ 40 đến 50 là độ tuổi chính chắn của cuộc đời mỗi con người thông qua tuyên bố gần như là mệnh đề của Khổng Tử “tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mệnh” ba mươi tuổi thì lập thân, bốn mươi tuổi thì hết nghi hoặc, có nghĩa là chính chắn về mặt tri thức, năm mươi tuổi biết được mệnh trời, có nghĩa là đã biết được sự thành bại. Tuy nhiên, cả năm nhân vật mà chúng tôi khảo sát họ gần như chênh vênh trong cuộc đời. Dường như có một nhãn quan chung cho cả năm nhân vật trong cả năm cuốn tiểu thuyết mà chúng tôi khảo sát. Có khác ở đây là họ diễn vai của mình cho từng nhân vật, từng cái tên khác, từng công việc khác. Để rồi khi 11 đối diện với chính mình họ cũng có những nỗi đau như thế, có những nỗi buồn như thế, thậm chí đến cả sở thích ăn uống, làm tình cũng giống nhau. Họ là những mảng khác nhau của một quan niệm, đó là những nhân vật mang trên mình nỗi đau của tuổi hay nói đúng hơn là nỗi đau của thời gian. Độ tuổi của nhân vật có lẽ cùng độ tuổi với nhà văn Đỗ Phấn. Thời gian đã làm cho họ chênh vênh trong cuộc đời của họ. Họ phải chứng kiến những cơn biến động của lịch sử, và đương nhiên đó cũng đồng thời là biến động của văn hóa. Cơn lốc của lịch sử cuốn theo cuộc đời và số phận của họ. Điều đặc biệt ở đây là họ đã từng chứng kiến những năm tháng thanh bình của một Hà Nội lịch lãm trước chiến tranh, họ đã chứng kiến nỗi đau khi phải rời xa Hà Nội trong những ngày có chiến sự, rồi họ lại phải chứng kiến những mất mát về cả vật chất lẫn tinh thần, cả máu và nước mắt trong cuộc chiến “Anh đã sống qua những tháng năm buồn bã của cuộc đời khi đất nước có quá nhiều kẻ thù. Chứng kiến bom rơi đạn nổ suốt dọc chiều dài gầy nhẳng của cái hình chữ S trên bản đồ. Một hình chữ S thương khó mịt mù bom đạn trong suốt hai mươi năm liền. Bây giờ mới thấy sợ. Và chán ghét những đầu óc thù hằn” [31; 41]. Những năm tháng bao cấp không phải chịu cảnh mưa bom bão đạn nhưng cuộc sống khốn khó của thời bao cấp đã làm mất đi phần thể diện trong con người họ. Rồi sau đó họ lại phải chứng kiến sự mất mát về văn hóa của cả một ngàn năm văn hiến trong cuộc chạy đua vũ bão của cơ chế thị trường. Rồi cuối cùng, họ bị bỏ lại trong cuộc chạy đua vĩ đại đó. Và đương nhiên họ cũng không còn là chính họ nữa. Khi đọc những trang văn của Đỗ Phấn, chúng ta không khỏi không liên tưởng đến một thế hệ nhà văn trở về từ cuộc thế chiến thứ nhất trong văn chương Hoa Kỳ, lớp nhà văn mà Hemingway đã từng gọi là “thế hệ mất mát”. Họ chiến thắng trong chiến trận, nhưng họ bại trận trong chính cuộc đời họ. 12 Họ trở về đời thực để rồi ngơ ngác trước sự “lạ phố, lạ nhà” “Xã hội đổi thay đến không ngờ, những gì tôi được học để xây dựng nó hình như không dùng đến nữa. Thậm chí còn khó mà tưởng tượng ra hình ảnh thật sự dù rằng nó vẫn thường xuyên được gia công hoàn thiện trên sách vở tuyên truyền. Nó như thế nào? Ai? Và đi đến đâu? Tôi cứ như chiếc nan hoa gẫy văng ra khỏi vành bánh xe đạp. Để biết đoạn dây thép ấy từ đâu ra cũng không phải là chuyện dễ với lớp trẻ hôm nay nữa rồi” [34; 365]. Độ tuổi của nhân vật đã nói lên rằng họ đã thuộc về một nền văn hóa khác, những chuẩn giá trị khác. Họ đã “lỗi thời” với những gì mà họ đang đối mặt hàng ngày. Về công việc, tất cả trong số họ đều là những công chức làng nhàng, thất nghiệp hoặc gần như thất nghiệp. Điều đặc biệt ở đây là truyện được kể với điểm nhìn bên trong nên sự ý thức về công việc cũng như những phản ứng về công việc của nhân vật được tác giả thể hiện hết sức chân thật và tinh tế. Đối với một công chức bình thường, độ tuổi 40 đến 55 là độ tuổi đánh giá thành bại của một người trong công việc. Họ sẽ được cất nhắc ở một vị trí cao nhất mình có thể có và nếu không sẽ chờ để nghỉ hưu. Đây cũng là giai đoạn hết sức chênh vênh trong cuộc đời công chức của một con người, bởi hai lẽ hoặc là họ sẽ được cất nhắc lên vị trí cao, hai là ngược lại nằm trong diện giảm biên chế. Xét về đời sống công chức, các nhân vật chúng ta đang khảo sát rơi vào trường hợp thứ hai, tuy nhiên họ vẫn tiếp tục làm việc và thậm chí gặt hái được nhiều thành công trong công việc cho chính bản thân họ và họ vẫn ổn đối với chính họ và trong con mắt của những đồng nghiệp và thị dân khác. Họa sĩ Vũ trong Vắng mặt đã rất mặc cảm về chuyện bỏ việc ra làm ngoài bởi theo quan niệm của thời đó “không có định nghĩa trí thức ngoài quốc doanh. Đi lao động kiếm ăn mà cũng lén lút vụng trộm. Và mang tiếng xấu. Làm ngoài” [29; 40]. Sự mặc cảm này đã trở nên uất ức, khổ sở khi mà 13 nhân vật phải che giấu việc không có việc làm của mình như một người có tội “Mi giấu kín chuyện bỏ việc với bà con dân phố. Bằng một phương pháp rất cũ nhưng đầy công hiệu. Sáng sáng vẫn đều đặn dắt xe đạp ra đường. Ăn sáng, uống cà phê ở một quán xa nhà. Không người quen biết. Cái cảm giác như một kẻ vắng mặt giữa chốn đông người nhiều khi làm mi bị ức chế. Ê chề. Chán nản. Làm nhân dân đã là thứ bậc cuối cùng trong xã hội. Nhưng mi có vẻ như còn dưới nhân dân một bậc nữa. làm nhân dân một mình” [29; 41]. Tuy nhiên, với những cố gắng của mình cộng với sự giúp đỡ của bạn bè, Vũ cũng đã trở thành họa sĩ có danh tiếng. Kỹ sư Văn trong Rừng người sau mười năm làm công chức nhà nước “tấm bằng kinh tế xây dựng chẳng dùng vào việc gì. Anh làm việc ở phòng tuyên truyền xí nghiệp đồ gỗ. kẻ khẩu hiệu an toàn lao động và nội quy sản xuất cho các phân xưởng. May mắn ngày ấy chưa cải tiến chữ quốc ngữ như bây giờ. Nếu những cái cách như vậy sớm lên khoảng mười năm, anh đã được liệt vào diện tái mù” [31; 37]. Rồi anh cũng xin chuyển công tác, nhưng anh không lường trước được những rủi ro đang đợi anh đó là “cái cổng sau” của cơ quan mới. Rồi cũng như họa sĩ Vũ, anh chọn con đường làm ngoài. Tuy nhiên, cũng như họa sĩ Vũ, anh cũng có sự may mắn và được sự giúp đỡ của người bạn tốt bụng nên công việc cũng suôn sẽ và nuôi sống anh trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Thành trong Gần như là sống cũng chung số phận với hai nhân vật trên, mặc dầu tốt nghiệp chuyên ngành kiến trúc nhưng công việc của anh lại là quản lý hồ sơ. Một công việc chẳng liên quan gì đến chuyên môn. Không những thế, đời sống công chức nhạt nhẽo, đố kỵ, đấu đá đã đưa anh đến quyết định là phải thay đổi cuộc đời của mình, thay đổi để là chính anh. Rồi anh trở thành một họa sĩ bất đắc dĩ. Hội họa đem đến cho anh niềm vui và niềm ham sống. Hội họa làm sống dậy trong anh những ký ức về cảnh vật và con người, 14 giúp anh níu giữ những khoảnh khắc bình yên, những góc khuất tưởng như mịt mù quên lãng trong những năm tháng bon chen cơm áo và lối sống nhạt nhẽo tình người đã làm cho anh tưởng rằng là đã quên. Với nhân vật này, nghệ thuật dường như đã cứu xét một phần cuộc đời anh. Trong Con mắt rỗng, lần đầu tiên Đỗ Phấn xây dựng một chân dung nghệ sĩ trọn vẹn. Hơn thế nữa, Thế Hoàng là nghệ sĩ có bản lĩnh và ý thức được trách nhiệm của nghề nghiệp và quan trọng hơn, anh có đam mê. Sự đam mê cộng với tài năng đã đem đến cho anh một vị trí và thành công trong sự nghiệp. Anh là họa sĩ sống hết mình với đam mê và công việc. Đó là tất cả ý nghĩa đời sống của anh. Khi đã không còn đam mê nữa, anh chấp nhận từ bỏ cuộc sống. Đức trong Rụng xuống ngày hư ảo, mặc dầu đã năm mươi tuổi rồi nhưng vẫn chịu thân phận nhà báo hợp đồng. Tuy nhiên với sự sắc sảo trong công việc cộng với những kinh nghiệm của một nhà báo lâu năm đã đem lại cho ông một cuộc sống công chức tạm ổn, cũng ít nhiều “dăm ba bữa nhậu” với bạn bè. Cũng như các nhân vật đàn ông trung niên trí thức độc thân trong các tiểu thuyết trên mà chúng tôi khảo sát, Đức cũng chẳng mảy may tìm được sự yêu thích trong công việc nhà nước của mình, thậm chí là chán ghét và ghê sợ bởi những mưu mô và khuất tất thậm chí là vô đạo đức của cánh nhà báo. Thế nhưng, hắn muốn nghỉ việc người ta cũng không cho hắn nghỉ vì những quan hệ của hắn thậm chí ngay cả khi hắn bị ốm và có vấn đề về thần kinh. Chỉ đến khi hắn bị điên hẳn và kết thúc phần đời còn lại trong nhà thương điên thì chính thức hắn mới được nghỉ việc. Trong quan niệm của người Việt, thành công của một con người thể hiện ở ba phương diện công việc, tài sản và có gia đình riêng. Điều đó đã thể hiện trong câu ca dao từ ngàn xưa rằng “tậu trâu, dựng vợ, làm nhà/có ba thứ đó mới ra con Người”. Đó là trách nhiệm và cũng là thước đo giá trị của 15 người đàn ông. Thế nhưng trong năm nhân vật đàn ông mà chúng tôi khảo sát, cả năm nhân vật đều độc thân, mà lại độc thân ở tuổi xế chiều. Năm nhân vật này trong tiểu thuyết Đỗ Phấn đều mất niềm tin vào gia đình, hoặc tự cảm thấy mình không phù hợp với cuộc sống gia đình. Nhân vật Vũ trong Vắng mặt gần như mất hẳn niềm tin vào hạnh phúc gia đình “Từ lâu, mi đã không còn nghĩ đến một hạnh phúc theo kiểu gia đình. Nó cũng đầy rẫy những giả tạo chán chường. Như cuộc sống gia đình thằng Khoa, thằng Hà”. Cuộc sống vật vã cơm áo gạo tiền, những người vợ không chung thủy và những đứa trẻ con hư hỏng, mè nheo đã làm cho Kỹ sư Văn trong Rừng người thấy hôn nhân chỉ là sự ràng buộc và tiềm ẩn những nguy cơ giết mòn tình yêu và cả sự tự do, đó là một “Tưởng tượng ra cuộc hôn nhân với nàng, anh biết chắc phải đánh đổi những tháng năm vui vẻ bình an này lấy một cuộc sống gia đình mè nheo cơm áo cãi cọ như những người thành phố khác” [31; 41]. Nếu như sự tồn tại của con người chỉ là những bản ghi, những “sự việc” và con số, thì những giá trị về hôn nhân gia đình nó trở thành mô hình một mô hình đơn giản đến phũ phàng “mô hình hạnh phúc thị dân nhạt phèo như nó đã từng. Nó nhạt đến mức không cần dùng đến trí tuệ. Thức dậy quần quần áo áo con đực cõng con cái ra khỏi nhà trên chiếc xe máy mò lên phố ăn sáng uống cà phê. Ăn uống phải chia nhau cái cảm giác không vừa lòng bởi mỗi con có một ý thích khác. Chiều về chia nhau đón con tắm rửa cho chúng và ngồi vào mâm cơm vào lúc tám giờ tối. Cơm xong con đực nghiến răng ngồi xem phim tình cảm cảm dài tập của Hàn Quốc cùng con cái. Sau hai lần chảy nước mắt vì cuộc chia ly trên màn hình con cái bắt đầu ngáp vặt. Cả hai lên giường vùi mình vào giấc ngủ không cần đến mộng mơ. Gần sáng dậy làm một phát vội vàng không cảm xúc. Ngày nào cũng thế. Không cãi cọ chửi bới nhau là may lắm rồi” [32; 19].
doc truyen tieu thuyet đỗ đỗ